Mô hình cốc và tay cầm trên biểu đồ giá của cổ phiếu là một chỉ báo kỹ thuật mô phỏng như 1 cái cốc có tay cầm, trong đó cốc có hình chữ "u" và tay cầm có độ dốc nhẹ. Cốc và tay cầm được coi là một tín hiệu tăng giá, với phía bên phải của mô hình thường có khối lượng giao dịch thấp hơn. Sự hình thành của mô hình có thể chỉ là 7 tuần hoặc dài tới 65 tuần.
Ý TƯỞNG QUAN TRỌNG
William J. O'Neil đã định nghĩa mô hình cốc và tay cầm (C & H) trong tác phẩm kinh điển năm 1988 của ông, "How to Make Money in Stocks" (cách kiếm tiền từ cổ phiếu), cộng thêm các yêu cầu kỹ thuật thông qua một loạt các bài báo được đăng trên tờ Investor's Business Daily được ông thành lập năm 1984. O'Neil bao gồm các phép đo khung thời gian cho từng thành phần, cũng như sự mô tả chi tiết các mức đáy được làm tròn đem lại cho mô hình tách trà độc đáo.
Khi cổ phiếu hình thành mô hình này sẽ test các mức đỉnh cũ, có khả năng sẽ chịu áp lực bán từ các nhà đầu tư đã mua trước đó ở các mức này; áp lực bán có khả năng làm cho giá có xu hướng giảm trong thời gian 4 ngày đến 4 tuần, trước khi tăng cao hơn. Cốc và tay cầm được xem là mô hình tiếp tục giá tăng và sử dụng để xác định cơ hội Mua.
Cần xem xét những điều sau đây khi phát hiện các mẫu cốc và tay cầm:
Giá không cần retest lại mức kháng cự trước đó hoặc chạm đến phạm vi mức đỉnh cũ; tuy nhiên, phần trên của tay cầm càng xa mức đỉnh thì sự bức phá càng yếu.
Hình ảnh dưới đây mô tả một chiếc cốc và tay cầm kinh điển. Đặt lệnh Buy Stop hơi cao hơn đường xu hướng trên của tay cầm. Lệnh chỉ nên xảy ra nếu giá phá vỡ mức kháng cự của mô hình. Trader có thể sai mục tiêu và vào lệnh ở điểm bức phá giả khi hấp tấp vào lệnh. Thay vào đó, đợi giá đóng cửa trên đường xu hướng trên của tay cầm, sau đó đặt lệnh giới hạn (Limit Order) ở dưới điểm bức phá của mô hình, để được vào lệnh nếu giá giảm. Có nguy cơ bỏ lỡ giao dịch nếu giá tiếp tục tăng và không hồi lại.
Mục tiêu lợi nhuận được xác định bằng cách đo khoảng cách giữa đáy cốc và điểm bức phá của mô hình. Ví dụ: nếu khoảng cách giữa đáy cốc và mức xử lý đột phá là 20 điểm, mục tiêu lợi nhuận được đặt cao hơn 20 điểm so với tay cầm của mẫu. Các lệnh dừng lỗ có thể được đặt ở dưới tay cầm hoặc bên dưới cốc tùy thuộc vào khả năng chịu rủi ro và biến động thị trường của bạn.
Bây giờ, hãy xem xét một ví dụ lịch sử của Wynn Resort, Limited (WYNN), công khai trên sàn giao dịch Nasdaq với giá gần $13 vào tháng 10/2002 và 5 năm sau đó tăng lên $154. Sự suy giảm sau đó đã kết thúc trong phạm vi 2 điểm của giá chào bán ban đầu (IPO), vượt xa yêu cầu của O'Neil cho một cốc “nông” (shallow cup) trong xu hướng trước đó. Sóng tiếp theo phục hồi đạt mức đỉnh của năm 2011, gần 10 năm sau lần đầu tiên. Tay cầm này theo sau sự kỳ vọng giá điều chỉnh, tìm ra ngưỡng hỗ trợ ở mức thoái lui 50% theo hình tròn và trở lại mức đỉnh lần thứ 2 sau 14 tháng. Cổ phiếu đã bức phá vào tháng 10 năm 2013 và thêm 90 điểm trong 5 tháng tiếp theo.
Giống như các chỉ báo kỹ thuật khác, cốc và tay cầm nên được sử dụng cùng với các tín hiệu và chỉ báo khác trước khi đưa ra quyết định giao dịch. Với đặc trưng của cốc và tay cầm, một số hạn chế đã được tìm thấy. Đầu tiên là nó mất một khoảng thời gian để mô hình hình thành đầy đủ, điều này có thể dẫn đến các quyết định trễ. Mặc dù một tháng đến một năm là khung thời gian điển hình cho một chiếc cốc và tay cầm hình thành, nó cũng có thể xảy ra khá nhanh hoặc mất vài năm, khiến nó trở nên mơ hồ trong một số trường hợp. Một vấn đề khác liên quan đến độ sâu của phần cốc. Đôi khi một cốc nông hơn có thể cho tín hiệu, trong khi cốc sâu hơn có thể tạo ra tín hiệu sai. Đôi khi cốc không có tay cầm đặc trưng. Cuối cùng, một hạn chế được chia sẻ nhiều là nó có thể không đáng tin cậy trong các cổ phiếu không dễ thanh khoản.