Ngành Ngân Hàng: Hồi phục giảm tốc

                                                                                                                                                                     Nguồn: MIRAE

Hồi phục giảm tốc

 

 

Tăng trưởng tín dụng

Chưa đạt kỳ vọng

Tăng trưởng tín dụng Q3/2024 duy trì ổn định: Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 9% đến hết Q3/2024, tăng 3%p sv. Q2/2024. Tốc độ tăng trưởng tín dụng 9T2024 khá tương đồng với các giai đoạn cùng kỳ trong vòng nửa thập kỷ trở lại đây. Bên cạnh đó, đến cuối tháng 10, tăng trưởng tín dụng đạt gần 10.1% sv.2023 (16.6% sv.ck.), nhờ vậy, NHNN tự tin rằng mục tiêu 15% năm 2024 sẽ không phải là mục tiêu bất khả thi.

Mặt bằng lãi suất cho vay duy trì ở mức thấp: Theo thống kê cho thấy lãi suất có phần tăng nhẹ nhưng chỉ tập trung tại một số ít các ngân hàng với quy mô cũng tương đối nhỏ. So sánh tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cũng không quá phân hóa như trước đây, trong đó, các ngân hàng lớn ghi nhận tăng trưởng bền bỉ hơn. Lãi suất cho vay thấp cũng phần nào phản ánh nhu cầu tổng thể thấp và nhiều ngân hàng đang cạnh tranh bằng lãi suất. Thêm vào đó, nỗi lo nợ xấu gia tăng cũng phần nào hạn chế các ngân hàng gia tăng lãi vay.

Tín dụng có thể tăng nhanh cuối kỳ để đạt mục tiêu tăng trưởng 15%: Trong báo cáo trước thì chúng tôi đã nâng tăng trưởng tín dụng mục tiêu cho năm 2024 lên mức 14%, thấp hơn nhẹ so với mục tiêu từ phía NHNN là 15%. Tuy nhiên, tăng trưởng kỹ thuật giai đoạn gần cuối kỳ sẽ có thể được sử dụng để hoàn thành mục tiêu hơn là nhu cầu tín dụng thực tế. Chúng tôi cho rằng mức tăng trưởng tín dụng thực tế sẽ rơi vào khoảng 13.5-14% trong khi tăng trưởng cho năm 2025 sẽ khoảng 12.7%. Tốc độ tín dụng giảm dần phản ánh kỳ vọng nền kinh tế tăng trưởng bớt phụ thuộc vào nợ vay. Ngoài ra thì các ngành sản xuất chế biến chế tạo phục vụ cho giai đoạn phục hồi cũng không cần quá nhiều nguồn lực từ hệ thống ngân hàng.

Thích nghi hoàn cảnh

Trong 9T2024, tăng trưởng tín dụng được dẫn dắt chính nhờ cho vay KHDN, với các khoản vay sản xuất cũng như kinh doanh và phát triển bất động sản. Tuy nhiên, phân khúc ngân hàng bán lẻ dần ghi nhận sự phục hồi nhẹ trong Q3/2024. Sự hồi phục của các đơn hàng xuất khẩu nhờ tồn kho tại các quốc gia đối tác giảm từ quý 1, qua đó thúc đẩy sản xuất nội địa, gián tiếp tăng nhu cầu tín dụng ở các ngành liên quan. Bên cạnh đó, các ngân hàng với khẩu vị rủi ro cao hơn ghi nhận gia tăng tín dụng tài trợ cho nhóm BĐS, trong khi cho vay mua nhà vẫn tăng trưởng chậm, theo ghi nhận tại các ngân hàng mà chúng tôi theo dõi.

Nhìn chung, lãi suất vẫn giữ ở nền thấp do cạnh tranh gia tăng, và được kỳ vọng tăng dần trong Q4/2024 và 6T2025. Các ngân hàng có tăng trưởng tín dụng cao như TCB, VPB, và HDB, đều ghi nhận gia tăng tỷ trọng đối với BĐS và xây dựng. Còn về nhóm ngân hàng ghi nhận tăng trưởng tỷ trọng nhóm KHCN có thể kể đến như BID, TCB, và CTG, nhờ cung cấp lãi suất hấp dẫn hơn. Trong khi đó, các ngân hàng có truyền thống tập trung mảng bán lẻ như VIB, HDB, và VPB tạm thời chuyển hướng sang các phân khúc khác do nhu cầu tín dụng bán lẻ hạn chế. Điều này phản ánh mức độ cạnh tranh ngày càng tăng trong phân khúc KHCN, ngay cả các ngân hàng có chiến lược xuyên suốt đối với mảng này cũng phải mở rộng sang cho vay doanh nghiệp.

Tỷ trọng đầu tư TPDN tại các ngân hàng tiếp tục giảm trong Q3/2024. Đến cuối quý, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp nắm giữ bởi các NHNY đã giảm hơn 14% sv.2023. Tuy nhiên, danh mục trái phiếu hiện tại vẫn có thể chứa một phần trái phiếu đặc biệt (VAMC), do một số ngân hàng gặp khó khăn trong vấn đề xử lý chất lượng tài sản sẽ tái sử dụng công cụ này. Trong bối cảnh dòng tiền từ doanh thu bất động sản còn hạn chế, niềm tin của nhà đầu tư đối với thị trường TP và nhiều thay đổi quy định trong môi trường hoạt động, các nhà phát triển BĐS lại đang dần phụ thuộc vào huy động trực tiếp từ các khoản vay. Bên cạnh đó, một phần sự sụt giảm trong mảng ngân hàng đầu tư có thể đến từ việc tái cơ cấu hoặc chuyển đổi trái phiếu doanh nghiệp thành các khoản vay, giúp các ngân hàng kiểm soát tốt hơn việc sử dụng cũng như thu hồi vốn. Ngoài ra, các quy định chặt chẽ hơn theo Nghị định 65 đã làm giảm đáng kể lượng phát hành TPDN bởi các tổ chức phi ngân hàng.

Huy động và lãi suất

Dần đồng bộ

Tăng trưởng tiền gửi trong kỳ ghi nhận mức tăng trưởng khá đồng pha so với tăng trưởng tín dụng. Đến cuối Q3/2024, tiền gửi tăng trưởng ước đạt 5.3% sv. 2023, ghi nhận mức tăng theo quý khoảng 2.7%p sv. Q2 (thấp hơn nhẹ tốc độ tăng trưởng tín dụng 3%p). Tuy nhiên, tăng trưởng tiền gửi có diễn biến khá tương đồng với tăng trưởng tín dụng khi ghi nhận tăng mạnh trong giai đoạn cuối kỳ, phần nào phản ánh mức độ tăng trưởng thực có thể thấp hơn nhẹ so với số liệu báo cáo. Xét riêng về nhóm các NHNY, mức chênh lệch có vẻ thấp hơn với mức huy động ghi nhận tăng 7.4% sv.2023, vẫn tương đối thấp hơn mức tăng tín dụng khoảng 11%.

Duy trì kỳ vọng tăng lãi suất sẽ hỗ trợ tăng trưởng tiền gửi. Từ giai đoạn cuối quý 2, tăng trưởng của hai bên đã dần cân bằng hơn nhờ các hạn chế đầu cơ đối với các loại tài sản như vàng và ngoại hối. Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi 12 tháng trung bình (loại trừ nhóm NHQD) đã tăng khoảng 40bps so với mức đáy tháng 3/2024, trong khi lãi suất kỳ hạn 6 tháng tăng mạnh hơn, khoảng 70bps. Ngược lại, các ngân hàng quốc doanh như BID, VCB, và CTG vẫn đang duy trì lãi suất ở mức thấp nhằm hỗ trợ kinh tế hồi phục theo chủ trương của chính phủ, khi lãi suất huy động thường gián tiếp tác động đến lãi vay. Trong ngắn hạn, chúng tôi kỳ vọng lãi suất sẽ tăng thêm khoảng 50bps nhằm cân bằng huy động và cho vay trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng liên tục duy trì ở mức cao.

Áp lực vẫn ở mức cao

Nhiều công cụ được sử dụng linh hoạt để điều tiết thanh khoản nhằm hạn chế tác động trượt giá của đồng nội tệ. NHNN từ năm 2023 đã sử dụng nhiều biện pháp như các công cụ thị trường mở, điều chỉnh lãi suất điều hành, cũng như mua/bán dự trữ ngoại hối (đa phần bán) nhằm hạn chế mức giảm của đồng nội tệ trong phạm vi hợp lý. Với việc Fed bước vào giai đoạn đảo chiều lãi suất, áp lực tỷ giá sẽ giảm dần và các lãi suất liên ngân hàng cũng như OMO dự kiến duy trì quanh mức 4% trong năm tới. Với lộ trình cắt giảm lãi suất của Fed còn nhiều bất định theo các chỉ số vĩ mô, tỷ giá vẫn có thể biến động nhiều trong giai đoạn cuối 2024 và 2025. Hiện tại các mốc lãi suất, đặc biệt lãi suất liên ngân hàng tuy phần nào ổn định nhưng vẫn duy trì ở mức cao, vì vậy các ngân hàng cũng đang cơ cấu lại bảng cân đối cả về chỉ số thanh khoản cũng như biên lợi suất, như tăng huy động ngắn hạn từ tiền gửi cũng như phát hành giấy tờ có giá nhằm tận dụng môi trường lãi suất thấp.

Rủi ro tiềm ẩn bên cạnh các yếu tố cơ bản. Đồng nội tệ ghi nhận phục hồi trong thời gian ngắn liền trước và sau khi Fed khởi động cắt giảm lãi suất, với mức giảm đầu tiên tích cực ở mức 50bps. Tuy nhiên, đồng USD sau đó lại tăng trở lại khi các chỉ số vĩ mô của nền kinh tế Mỹ vẫn tốt đi kèm với lạm phát duy trì ở mức cao dẫn đến nguy cơ lãi suất có thể duy trì ở mức cao trong thời gian dài hơn. Bên cạnh đó, sự kiện cựu tổng thống Trump tái đắc cử cũng được dự báo ảnh hưởng tiêu cực lên lạm phát, qua đó, ảnh hưởng đến triển vọng lãi suất của Fed. Vì vậy, bên cạnh việc lãi suất của Việt Nam đang duy trì ở mức thấp hơn so với Mỹ và cả quá khứ, thì lãi suất nội địa khả năng cao sẽ tăng trở lại, và mức tăng sẽ được điều chỉnh dần phù hợp với khả năng chống chịu của nền kinh tế.

Thanh khoản

Tiến gần hạn mức

Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) cần sớm điều chỉnh, đặc biệt là nhóm NHQD. Từ 2025, 80% tiền gửi từ KBNN sẽ bị loại khỏi cơ sở tính tiền gửi khi xác định tỷ lệ LDR, tăng từ mức 60%. Như vậy, nhóm NHQD sẽ cần huy động nhiều hơn từ tiền gửi khách hàng. Ngoài ra, do sự tăng trưởng chưa tương xứng của tiền gửi, LDR tại nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức cao như TCB VPB, hay MBB đang tiệm cận với mức trần tại 85% bên cạnh nhóm NHQD luôn tận dụng triệt để hạn mức LDR cho phép. Tuy LDR hiện tại vẫn phù hợp với quy định, chỉ số tại nhiều ngân hàng đã tăng lên mức cao lịch sử. Vì vậy, lãi suất sẽ sớm phải điều chỉnh tăng nhằm huy động tốt hơn. Hiện trong nhóm các ngân hàng chúng tôi theo dõi, các ngân hàng còn nhiều dư địa tăng trưởng tín dụng dựa trên mức LDR thấp bao gồm VIB và HDB. Còn về tỷ lệ huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn vẫn đang được duy trì ở mức hợp lý.

Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) đa số ghi nhận giảm nhẹ trong kỳ Q3/2024, nhưng không quá đáng kể. Đa phần các ngân hàng các ngân hàng tư nhân lớn vẫn duy trì được mức CAR cao dù quyết định chia cổ tức bằng tiền mặt. Trong khi đó, các NHQD không chỉ có mức LDR tương đối cao, trước đây, nhóm này cũng duy trì chia cổ tức bằng tiền mặt làm giảm khả năng tăng trưởng khi CAR chỉ được duy trì ở mức vừa đủ. Nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh cũng như tăng trưởng của nhóm này, phía cổ đông lớn của nhóm đang thảo luận với chính phủ về đề xuất chính sách cho phép các ngân hàng linh hoạt hơn trong vấn đề giữ lại lợi nhuận để tăng vốn không chỉ nhằm duy trì tăng trưởng mà còn ổn định hoạt động của các ngân hàng trong trung và dài hạn

Chất lượng tài sản

Kiểm soát nợ xấu

Diễn biến chất lượng tài sản của các NHNY dù khá phân hóa, nhưng có phần cải thiện. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) của nhóm này giảm nhẹ trong Q3/2024, trung bình giảm 7bps xuống còn 2.47%, dù vậy vẫn cao hơn mức đầu năm khoảng 42bps. Trong khi đó, tỷ lệ nợ dưới chuẩn (bao gồm nợ nhóm 2) giảm đáng kể hơn theo quý với 46bps, hay 6bps sv.2023 xuống 5.18%. So với mức nợ xấu đỉnh điểm trong Q3/2023 thì hai tỷ lệ này đã giảm lần lượt 14bps và 67bps. Ngoài ra, lượng nợ xấu hình thành mới trong kỳ cũng ghi nhận giảm đáng kể.

Sự hồi phục chưa được đồng nhất giữa các ngân hàng. Các ngân hàng ghi nhận chất lượng tài sản duy trì ở mức tốt có thể kể đến như VCB, TCB, và CTG, trong khi một vài ngân hàng vốn có chất lượng tài sản tốt lại có sự suy giảm tương đối trong kỳ như BID và MBB. Mặc dù chất lượng tài sản trên mặt bằng chung có phần cải thiện, mức độ cải thiện vẫn chưa đáng kể, một phần vì thị trường bất động sản có vẻ cần nhiều thời gian hơn để phục hồi, đặc biệt là trong mảng vay mua nhà. Với triển vọng vĩ mô hồi phục ổn định đi cùng với đó là ngành bất động sản cũng khởi sắc hơn được kỳ vọng hỗ trợ ngành ngân hàng ổn định chất lượng tài sản.

Thận trọng cần thiết

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) cũng ghi nhận cải thiện trong Q3/2024, đồng thời cũng phân hóa tương đối: Trong đó, tỷ lệ LLR trung bình hồi phục khoảng 2.2% sv. Q2, đạt mức 83%. Tuy mức trung bình ghi nhận cuối quý 3 có vẻ không quá khả quan so với giai đoạn chính sách tiền tệ được nới lỏng 2020-2022, tỷ lệ LLR hiện tại đang tương đương với mức 2019. Hiện tại số ngân hàng duy trì được mức LLR trên 100% giảm từ 5 xuống 4 trong quý, khi tỷ lệ này tại MBB giảm mạnh. Trong khi đó, xét theo các nhóm ngân hàng, chất lượng tài sản tại nhóm NHQD vẫn phần nào vượt trội hơn nhóm tư nhân. Tuy nhiên, chất lượng tài sản của nhóm này đã giảm tương đối trong kỳ, đặc biệt là tỷ lệ LLR, khi thu nhập của nhóm này bị hạn chế khi phải duy trì mức lãi suất thấp.

Tình hình chung có phần cải thiện nhưng chưa thực sự khả quan khi đã được hỗ trợ bởi nhiều chính sách ưu đãi. Tình trạng NPL cao và LLR tương đối thấp cũng lý giải phần nào cho chủ trương duy trì mặt bằng lãi suất thấp. Vì vậy, vẫn có rủi ro là nợ xấu sẽ phát sinh nhiều hơn khi nhiều yếu tố cho thấy lãi suất (cho vay) sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Ngoài ra, rủi ro từ nhóm TPDN hết thời gian ân hạn trong giai đoạn đầu vào giữa năm 2025 cũng có thể gây áp lực lên chất lượng tài sản của ngành, khi dòng tiền của các doanh nghiệp phát hành, đặc biệt là nhóm bất động sản, không khởi sắc hơn.

Khả năng sinh lời

NIM đảo chiều

Diễn biến biên lãi thuần (NIM) có phần khác so với kỳ vọng khi giảm nhẹ trong kỳ Q3/2024. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn kỳ vọng NIM sẽ duy trì hay hồi phục tương đối trong thời gian tới. Tính theo quý, NIM trung bình giảm khoảng 8bps sv.Q2 hay 13bps sv.2023, hay tăng khoảng 38bps so với mức thấp được thiết lập trong Q3/2023. Nguyên nhân chính dẫn đến NIM suy giảm bao gồm mức độ cạnh tranh cao, chi phí huy động từ thị trường 2 cao , và mảng ngân hàng doanh nghiệp liên tục chiếm ưu thế kể từ giai đoạn 2023. Kỳ vọng tăng trưởng tín dụng cân bằng hơn giữa các phân khúc sẽ phần nào giảm áp lực lên NIM. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đang điều chỉnh lãi suất, đặc biệt là tăng lãi suất kỳ hạn ngắn, nhằm bình thường hóa lợi suất tài sản khi tín dụng KHDN tăng cao hơn. Còn tính trên cơ sở 12 tháng gần nhất, NIM vẫn đang duy trì xu hướng tăng với +8bps sv.Q2 và 22bps sv.2023, đạt 3.47%.

Trong nhóm các ngân hàng chúng tôi theo dõi, xu hướng NIM hầu hết ghi nhận giảm, ngoại trừ STB. Trong đó, các NHQD ghi nhận mức giảm tương đối ít hơn, trung bình giảm 4bps sv.2023 hay 9bps sv.Q2, nhờ mức nền thấp và tỷ trọng KHCN tăng. Ngược lại, các ngân hàng tư nhân hàng đầu giảm mạnh hơn, trung bình giảm 45bps sv.Q2 và 20bps sv.2023, do đối mặt với cạnh tranh mạnh về mặt lãi suất, đặc biệt từ nhóm NHQD. Những mức giảm sv. Q2 đáng chú ý nhất ghi nhận tại một số ngân hàng như TCB (-45bps), MBB (-41bps), và VPB (-34bps), khi các ngân hàng này có nền tảng vốn tốt nên có nhiều dư địa giảm lãi suất nhằm kích thích tăng trưởng tín dụng. Trong thời gian tới, lợi thế của nhóm NHQD trong việc duy trì NIM có thể thay đổi khi thu nhập thuần của các NHQD gần như đi ngang, trích lập gia tăng, và bộ đệm trích lập vốn dồi dào cũng đang bị tận dụng triệt để nhằm duy trì lợi nhuận tăng trưởng dương.

Thu hẹp đà tăng

Đà tăng trưởng lợi nhuận của các NHNY phần nào chững lại trong Q3/2024, với mức tăng 17.7% sv.ck., thấp hơn mức tăng 22.6% trong quý 2 nhưng tích cực hơn quý 1 với 9.5%. Lũy kế 9T2024, lợi nhuận các ngân hàng tăng 16.4% sv.ck. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là mức nền lợi nhuận trong 9T2023 là khá thấp khi giảm nhẹ 2-3% mỗi quý trước khi tích cực trong Q4/2023 với mức tăng 25.4%. Động lực chính cho tăng trưởng lợi nhuận đến từ thu nhập lãi thuần (NII) tăng bền bỉ, trong khi thu nhập ngoài lãi, đặc biệt là thu nhập thuần từ dịch vụ (NSI), vẫn chưa mấy khởi sắc. Theo đó, tăng trưởng tín dụng ổn định ở mức 14–15%, duy trì NII tăng 14.1% sv.ck. trong 9T2024. Tuy nhiên, thu nhập lãi thuần trong Q3 giảm 2% sv.Q2. NSI tại đa phần các ngân hàng ghi nhận giảm do thay đổi trong chính sách liên quan đến kinh doanh bảo hiểm và cách tính mới trong tăng trưởng tín dụng. Chỉ có VCB và TCB ghi nhận tăng trưởng tích cực trong kỳ nhờ chiếm thế mạnh trong mảng XNK và chứng khoán. Thu nhập khác (NOI) cũng chỉ tăng nhẹ ở mức 2.1% sv.ck.

Mục tiêu cả năm tương đối lạc quan so với mức thực hiện 9T2024. Tăng trưởng lợi nhuận có thể giảm tốc trong Q4/2024 trước hết do ảnh hưởng từ mức nền cao của Q4/2023 và kế hoạch tăng trích lập dự phòng khi nhiều ngân hàng cho rằng họ sẽ cần chi nhiều hơn cho khoảng chi phí này nhằm cải thiện chất lượng tài sản. Mức độ hoàn thành kế hoạch năm tại nhiều ngân hàng cũng khá thấp. Về triển vọng năm 2025, tăng trưởng lợi nhuận sẽ vẫn phải phụ thuộc lớn vào NII nhờ vào tăng trưởng tín dụng. Các nguồn thu ngoài lãi vẫn chưa được kỳ vọng khởi sắc khi thiếu vắng nhiều động lực đáng kể, tăng trưởng lợi nhuận ròng dự kiến đạt 15–20%, tùy thuộc vào mức độ thận trọng của các ngân hàng trong quá trình bình thường hóa các chỉ số sức khỏe cũng như lợi nhuận. Dù vẫn tích cực, mức tăng trưởng này vẫn sẽ khó khả quan như thường thấy trong giai đoạn 2017–2022, khi nền kinh tế hiện đang trong giai đoạn hồi phục dần. Tỷ trọng bất động sản được kỳ vọng điều chỉnh tương đối, trong khi gia tăng tỷ trọng các lĩnh vực sản xuất.

Các chỉ số chính

Định giá và điểm nhấn đầu tư

Rủi ro thấp sau điều chỉnh

Hệ quả của tâm lý thất vọng. Thị trường đặt kỳ vọng cao cho sự phục hồi của các doanh nghiệp nội nói chung, trong đó có cả ngành ngân hàng với nhiều ngân hàng lớn khi đặt mục tiêu tăng trưởng trên 30% cho 2024. Tuy nhiên, kết quả có vẻ thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng, đặc biệt là đối với nhóm ngân hàng khi họ thường đạt mục tiêu nhưng lại liên tiếp trượt trong 2023 và khả năng trong 2024. Vì vậy, dù có khởi đầu rất tích cực, tuy nhiên thị giá của nhóm này gặp nhiều đợt điều chỉnh mạnh đặc biệt là giai đoạn sau Q1 và Q3 khi kết quả dù tăng trưởng dương nhưng chưa đạt kỳ vọng. Các động lực bên ngoài như Fed điều chỉnh lãi suất, kinh tế Mỹ tăng trưởng tốt, và các chính sách kích thích kinh tế của Trung Quốc cũng không làm tâm lý thị trường hứng khởi. Thay vào đó, những thay đổi thường được suy diễn theo khuynh hướng tiêu cực.

Luận điểm đầu tư. Sự hồi phục của ngành ngân hàng về mặt vốn hóa từ cuối Q3 đến đầu Q4/2023, đồng pha với tăng trưởng lợi nhuận dương trở lại cùng kỳ. Theo đó, định giá được đưa trở lại về mức trung bình 5 năm từ mức -1 độ lệch chuẩn (std). Tuy nhiên, thị trường đang thiếu động lực để vượt ngưỡng định giá này, như đã đề cập trong báo cáo trước, và đa phần điều chỉnh tại mức này. Hiện tại, định giá đa phần đang ở khoảng dưới -0.5std, theo nhận định, là cơ hội tích lũy dần cổ phiếu ngân hàng. Bên cạnh chiến lược xuyên suốt của chúng tôi với các cổ phiếu ngân hàng là nhóm có tiềm năng đầu tư trung và dài hạn, hiện tại các cổ phiếu có mức định giá hấp dẫn, có thể kể đến như TCB và VPB, sẽ tiềm ẩn ít rủi ro hơn trong ngắn hạn, đặc biệt trong bối cảnh quá trình hồi phục kinh tế chung sẽ không thể nào bằng phẳng. Triển vọng tại các ngân hàng quốc doanh sẽ là câu chuyện tương đối dài hạn hơn khi vấn đề giữ lại lợi nhuận được kỳ vọng sẽ sớm có giải pháp, trong khi các ngân hàng này cũng có những thế mạnh cạnh tranh khác biệt như CTG với FDI bền vững, BID hưởng lợi từ gia tăng đầu tư công, và VCB có khả năng gia tăng thị phần mảng XNK.

Mức định giá hiện tại

P/B 5 năm của các ngân hàng