Nguồn: HSC
Q2/2023 nhiều khó khăn với LNTT giảm 22,8%
Tóm tắt
Sự kiện: Công bố KQKD Q2/2023
TCB đã công bố KQKD Q2/2023 với LNTT đạt 5.649 tỷ đồng (giảm 22,8% so với cùng kỳ). Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, LNTT đạt 11.272 tỷ đồng (giảm 20,1% so với cùng kỳ), bằng 46,5% dự báo của HSC cho cả năm 2023 và nói chung sát kỳ vọng.
Tỷ lệ NIM giảm là nguyên nhân chính khiến KQKD 6 tháng đầu năm 2023 sụt giảm. Chất lượng tài sản vẫn trong tầm kiểm soát mặc dù kém đi.
Tăng trưởng tín dụng thấp trong Q2/2023
Sau khi tăng trưởng mạnh 9% trong Q1/2023 (hạn mức được giao ban đầu của TCB là 9,7%), Ngân hàng đã không còn nhiều dư địa tăng trưởng tín dụng trong Q2/2023. Theo đó, tín dụng Q2/2023 chỉ tăng 0,6% so với quý trước và tăng 9,7% so với đầu năm. Trong đó, cho vay khách hàng tăng 10,9% so với đầu năm và TPDN giảm 3% so với đầu năm. Cơ cấu tổng tín dụng bao gồm 92,1% cho vay khách hàng và 7,8% TPDN. Khách hàng doanh nghiệp lớn là động lực tăng trưởng chính của cho vay (tăng 6% so với quý trước và tăng 27% so với đầu năm) trong khi cho vay KHCN yếu (giảm 7% so với quý trước và giảm 8,4% so với đầu năm). Cụ thể hơn, cho vay liên quan đến các doanh nghiệp BĐS tăng 3% so với quý trước (tăng 22% so với đầu năm) trong khi cho vay mua nhà giảm 10% so với quý trước (giảm 12,7% so với đầu năm) vì nhiều nhiều khách hàng tất toán khoản vay sớm và doanh số bán nhà sụt giảm.
TCB đã được giao thêm hạn mức tín dụng cho năm 2023 vào đầu tháng 7 (hạn mức hiện giờ là 14,1%), theo đó HSC kỳ vọng dư nợ cho vay sẽ tăng trưởng vừa phải và trở nên cân bằng hơn trong nửa cuối năm 2023.
Huy động – đi ngang nhưng tiền gửi không kỳ hạn cải thiện
Tổng vốn huy động tăng 0,7% so với quý trước (tăng 11,3% so với đầu năm) với tiền gửi khách hàng giảm 1,4% so với quý trước (tăng 6,6% so với đầu năm) và giấy tờ có giá tăng 17,6% so với quý trước (tăng 61,6% so với đầu năm). Ở tiền gửi khách hàng, tiền gửi không kỳ hạn có xu hướng tăng (tăng 7,5% so với quý trước và tăng 0,7% so với đầu năm) nhờ thanh khoản cải thiện và Ngân hàng tích cực thu hút thêm khách hàng mới; và đây là một diễn biến tích cực. Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn đã tăng lên 34,9% (so với 32% tại thời điểm cuối Q1/2023 và 37% tại thời điểm cuối năm 2022).
Tỷ lệ NIM tiếp tục giảm trong Q2/2023 nhưng có khả năng ổn định trở lại trong 6 tháng cuối năm 2023
Tỷ lệ NIM Q2/2023 giảm xuống 3,94% (giảm 27 điểm cơ bản so với quý trước và giảm 160 điểm cơ bản so với cùng kỳ) vì chi phí huy động tăng mạnh (tăng 21 điểm cơ bản so với quý trước và tăng 302 điểm cơ bản so với cùng kỳ) nhưng lợi suất cho vay không tăng tương ứng (giảm 5 điểm cơ bản so với quý trước và tăng 131 điểm cơ bản so với cùng kỳ).
Lợi suất cho vay Q2/2023 chịu sức ép giảm vì nhu cầu tín dụng từ KHCN yếu, đồng thời Ngân hàng có chính sách hỗ trợ khách hàng doanh nghiệp. Theo ban lãnh đạo, TCB đã áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hơn (giảm lãi suất cho vay trong năm 2023 nhưng sẽ điều chỉnh tăng lãi suất sau đó). Tỷ lệ NIM sẽ bị ảnh hưởng ngắn hạn từ chính sách hỗ trợ khách hàng nhưng sẽ hồi phục về sau.
Về cơ cấu chi phí huy động, chi phí huy động tiền gửi khách hàng bắt đầu giảm trong Q2/2023 (giảm 6 điểm cơ bản so với quý trước) nhưng chi phí huy động từ đi vay và phát hành GTCG tiếp tục tăng (lần lượt tăng 81 điểm cơ bản và 128 điểm cơ bản). Tăng huy động từ GTCG kỳ hạn trung (1-5 năm) và chi phí vay USD tăng là những lý do chính khiến chi phí huy động từ 2 nguồn này tăng. Tuy nhiên, HSC kỳ vọng chi phí huy động sẽ giảm trong 6 tháng cuối năm 2023, tạo điều kiện để tỷ lệ NIM ổn định trước sức ép lên lợi suất cho vay.
Thu nhập ngoài lãi biến động trái chiều
Tổng thu nhập ngoài lãi giảm 3,5% so với cùng kỳ với tác động tích cực từ: thu nhập khác (tăng 26% so với cùng kỳ) và lãi thuần HĐ dịch vụ (tăng 1,6% so với cùng kỳ) và giảm lỗ HĐ kinh doanh ngoại hối. Ngược lại, lãi từ mua bán trái phiếu giảm đáng kể (giảm 81,2% so với cùng kỳ) tác động tiêu cực nhất đến tổng thu nhập ngoài lãi.
Về thu nhập HĐ dịch vụ, động lực tăng trưởng chính là dịch vụ ngân quỹ, thanh toán, L/C đạt 1.080 tỷ đồng (tăng 124% so với cùng kỳ). Trái lại, thu nhập bancassurance (giảm 76% so với cùng kỳ trong bối cảnh toàn ngành khó khăn) và IB (giảm 55% so với cùng kỳ, chủ yếu do hoạt động phát hành TPDN trầm lắng trong bối cảnh thị trường TPDN chịu sự giám sát chặt) giảm mạnh. Phí dịch vụ IB đã hồi phục một chút (tăng 11% so với quý trước) nhờ thanh khoản trên thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu thứ cấp cải thiện.
Áp lực lên chất lượng tài sản vẫn trong tầm kiểm soát
Nợ xấu tăng lên 5.002 tỷ đồng (tăng 26,8% so với quý trước và tăng 65% so với đầu năm), theo đó tỷ lệ nợ xấu là 1,07% (so với 0,85% trong Q1/2023 và 0,72% trong Q4/2022). Nợ nhóm 2 vẫn ở mức tương đối cao, là 9.153 tỷ đồng (tương đương tỷ lệ nợ nhóm 2 ở mức 1,96%).
Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của KHCN đã tăng lên 1,96% (từ 1,02% tại thời điểm cuối năm 2022), của DNNVV tăng lên 1,51% (từ 1,15% tại thời điểm cuối năm 2022) và của khách hàng doanh nghiệp lớn vẫn ở mức 0%. Về chất lượng danh mục trái phiếu của TCB, trong số 72,1 nghìn tỷ đồng trái phiếu đầu tư có rủi ro tín dụng, có 1,9 nghìn tỷ đồng (2,63%) đã được phân loại vào nợ cần chú ý (nhóm 2).
Về các chỉ tiêu khác về chất lượng tài sản: hệ số LTV đã giảm còn 54% (từ 58% trong giai đoạn Q3/2022-Q1/2023) và tỷ lệ các khoản phải thu/tài sản sinh lãi bình quân vẫn duy trì ở 1,4%; nghĩa là vẫn được duy trì khá tốt. Ngoài ra, hệ số LLR giảm về 117% từ 134% trong Q1/2023, nhưng vẫn cao hơn mặt bằng bình quân ngành.
Chi phí dự phòng tăng mạnh 93,4% từ nền thấp cùng kỳ. Chi phí tín dụng (12 tháng) vẫn duy trì ở 0,6%; tương đương dự báo của HSC cho năm 2023.
Duy trì khuyến nghị Mua vào, giá mục tiêu và dự báo
HSC duy trì khuyến nghị Mua vào, giá mục tiêu 40.000đ và dự báo. Hiện TCB có P/B dự phóng năm 2023 là 0,87 lần; chiết khấu 17% so với bình quân nhóm NHTM tư nhân ở mức 1,08 lần.